LÀM SAO NGHE ĐƯỢC TIẾNG ANH (phần 3)Hai bài trước đây, tôi nói về việc nghe ‘âm thanh’ của tiếng Anh, có
nghĩa là làm sao phân biệt được các âm với nhau đến nỗi, dù không hiểu
câu ấy nói gì, cũng có thể lặp lại đúng lời người ta nói ra (câu càng
dài thì kỹ năng nghe của mình càng cao). Dĩ nhiên, có những người được
‘lỗ tai âm nhạc’ thiên phú nên phân biệt âm thanh rất nhanh. Ví dụ em
Wendy Võ, một nhi đồng gốc Việt tại North Carolina (tên Việt Nam là Võ
thị Ngọc Diễm). Năm nay em mới 8 tuổi mà đã nói được 11 thứ tiếng và
soạn 45 bản nhạc. Em có khả năng lặp lại một câu nói bằng bất cứ ngôn
ngữ nào trên thế giới, mà không cần hiểu nghĩa. Thế nhưng thường thường,
người ta phải mất nhiều thời gian để phân biệt các âm trong một ngôn
ngữ mới, tuy nhiên TẤT CẢ MỌI NGƯỜI đều có khả năng này, bằng chứng là
không một người nào trên trái đất (trừ người điếc) là không thể nghe và
nói ngôn ngữ mẹ đẻ của mình.
Nếu thời gian qua, các bạn đã lắng nghe âm thanh tiếng Anh thôi, thì đến
nay, hẳn bạn đã nhận thấy rằng bỗng dưng có một số từ hay cụm từ mình
nghe rõ ràng hơn xưa, đặc biệt là những con số và những danh từ riêng
(của các nhân vật, các địa danh … ), và những từ mình đã quen thuộc. Có
những đoạn bạn nghe một thời gian dài 5-15 phút (như trên TV) rồi bỗng
thấy mình ‘hiểu’ cơ bản nội dung chương trình đó.
Như thế là các bạn đã nghe tiếng Anh. Nhưng dù muốn dù không, khi nghe
một ngôn ngữ mà chỉ nghe âm thanh thôi, thì cũng giống như mình nghe
nhạc (không lời), hay nghe tiếng gió, tiếng ****. Nếu chỉ nghe như thế
thì không đáng bỏ công, vì ngôn ngữ cốt là để truyền tin (truyền một
thông tin). Nếu ta không nắm được thông tin bên dưới âm thanh phát ra
bằng tiếng Anh, thì kể như chúng ta không ‘nghe’ được tiếng Anh. Vì thế,
điều chúng ta cần học lại trước hết là nghe tiếng Anh (như một âm thanh
thuần túy) để tiến đến bước sau cùng (mà bình thường người học ngoại
ngữ xem là bước đầu tiên), ấy là ‘nghe’ tiếng Anh, theo nghĩa là ‘hiểu’
một thông tin.
Vì thế, sau hai bài để nói về cách nghe tiếng Anh, hôm nay tôi sẽ đi sâu
hơn, ấy là ‘nghe’ tiếng Anh, theo nghĩa là nắm bắt nội dung của thông
tin qua một chuỗi âm thanh bằng tiếng Anh.
Nghe tiếng Anh và ‘nghe’ tiếng Anh1. ‘Nghe’ trong ngữ cảnh.
Tôi từng nhắc đi nhắc lại rằng đừng bao giờ tra từ điển khi mình nghe
một diễn từ. Điều chủ yếu là nghe và lặp lại được những âm thanh đã
nghe, rồi dần dần hiểu được một từ mới, khi nó xuất hiện trong nhiều nội
dung khác nhau (nếu cả năm mình mới nghe từ đó một lần, có nghĩa là từ
ấy không thông dụng và, trong giai đoạn này, ta không cần phải bận tâm
đến nó!). Ví dụ: bạn nghe nhiều lần (âm thanh) ‘oubou’ mà không hiểu là
gì, lần lượt trong những câu sau:
- To play the ‘oubou’ you need to have strong arms.
- The ‘oubou’ is considered one of the most difficult instruments to play.
- The ‘oubou’ is very difficult to play, because Karen must force air at very high pressure into the tiny double reed.
Lần đầu tiên, bạn chẳng biết âm ‘oubou’ chỉ cái gì, nhưng vì đi với play
nên bạn đoán rằng đó là một cái gì để ‘chơi’. Như thế là đã ‘hiểu’ một
cách tổng quát. Lần 2, với từ ‘instrument’ bạn biết rằng đó là cái để
‘chơi’ nhưng không phải là trong thể thao, mà là trong âm nhạc. Lần thứ
ba, với cụm từ ‘must force air’ thì ta biết rằng đó là một nhạc cụ thổi
hơi (khí nhạc) chứ không phải là nhạc cụ dây hay gõ… Và ta tạm hiểu như
thế, mà không cần biết phải viết thế nào, cho đến khi đọc câu sau (chẳng
hạn):
The oboe looks very similar to the clarinet, but sounds very different!
Thế là ta biết được rõ ràng đó là một nhạc khí tương tự như clarinet, và
từ mà ta nghe là ‘oubou’ thì được viết là oboe (và ta đọc đúng ngay chứ
không cần phải tra từ điển!)
Ps: Đây cũng là vấn đề ‘hiểu’ một từ. Chúng ta có cảm giác rằng nếu dịch
được tiếng ấy ra là ta hiểu ngay, thế nhưng không có gì sai cho bằng.
Nếu bạn học theo quá trình ngược, nghĩa là khởi sự biết từ ấy dưới dạng
chữ viết, bạn sẽ tra từ điển và đọc là: kèn ô-boa! Bạn thấy hài lòng vì
mình đã hiểu! Nhưng thực ra, nếu bạn không phải là một nhạc sĩ, thì ‘kèn
ô-boa’ cũng chẳng thêm gì trong kiến thức bạn. Ngay trong tiếng mẹ đẻ,
ta có thể hài lòng với khái niệm mơ hồ về một từ, nhưng khi học ngoại
ngữ thì ta có cái cảm giác sai lầm là phải trở lại với từ mẹ đẻ mới gọi
là hiểu. Đối với tôi, nightingale là một loại **** có tiếng hót hay và
thường hót vào ban đêm, còn có dịch ra là ‘sơn ca’ hay ‘họa mi’ thì cũng
bằng thừa, vì tôi chưa bao giờ thấy và biết **** ‘sơn ca’ hay ‘họa mi’.
Thậm chí không biết là có phải một loài **** hay hai loài **** khác
nhau, vì cả hai từ đều được dịch là nightingale.
2. Nghe trong toàn bộ bối cảnh.Ta thường nghĩ rằng: ‘một từ thì có một nghĩa nhất định’. Hoàn toàn sai.
- Thử tra từ ‘tiêu cực’ trong từ điển: negative. Như thế, ‘một cán bộ
tiêu cực’ phải được dịch là ‘a negative cadre’! Nếu cụm từ tiếng Việt có
ý nghĩa rõ ràng thì cụm từ dịch ra tiếng Anh (như trên) là hoàn toàn vô
nghĩa! Nói cách khác: khi người Anh nói ‘negative’, thì người Việt hiểu
là ‘tiêu cực’; nhưng khi người Việt nói ‘tiêu cực’, thì người Anh không
thể hiểu là ‘negative.’
- Từ đó ta không thể nào hiểu đúng nghĩa một từ tiếng Anh nếu không đặt
vào trong bối cảnh của nó. Ví dụ: nếu không để ý rằng câu chuyện xảy ra ở
Anh hay ở Mỹ, thì khi nghe từ corn ta có thể hiểu sai: Ở Anh là lúa mì,
và ở Mỹ là bắp!
Nếu thấy một người mở nắp bình xăng lên mà nói ‘Oh my! No more gas’ thì
ta hiểu ngay rằng ‘gas’ chính là ‘xăng’, mặc dù trước đó mình có thể
học: petrol hay gasoline mới là xăng, còn gas có nghĩa là khí đốt!
Mà nhiều khi bối cảnh rõ đến nỗi, người ta dùng một từ sai mình cũng
hiểu đúng. Bạn cứ thử đến cây xăng, mở bình và nói: đổ cho tôi 30.000
dầu! Tôi cam đoan là người ta không thắc mắc gì cả và sẽ đổ XĂNG chứ
không đổ DẦU vào xe bạn; cao lắm là trong 100 lần, thì một lần người ta
nhắc lại: đổ xăng phải không? Bạn nói là Dầu người ta vẫn hiểu là Xăng.
Và trong tiếng Anh cũng thế! Bạn sẽ hiểu một từ trong toàn bộ bối cảnh
của nó.
3. Nghe với tất cả giai điệu của câu.Trong phần đầu tôi nói rằng khi ‘nghe’ một câu, chủ yếu là làm sao nắm
bắt được thông tin của chuỗi âm thanh ấy. Nói cách khác, ngôn ngữ có
nhiệm vụ là truyền tin. Nhưng ngoài nhiệm vụ truyền tin thì còn một
nhiệm vụ thứ hai, vô cùng quan trọng, ấy là nhiệm vụ truyền cảm. Một câu
nói giao tiếp hằng ngày, luôn tiềm tàng cái gì đó trong thất tình (=
bảy tình cảm con người, chứ không phải là bị tình phụ đâu: hỉ, nộ, ai,
lạc, ái, ố, dục). Vì thế, cao độ, tốc độ, cường độ của câu nói, trường
độ (độ dài) và dấu nhấn của một từ, có thể là điều mình cần phải ‘nghe’
cùng một lúc với các âm thanh được phát ra, thậm chí nghe âm điệu là
chính. Nếu không thì ta hiểu sai, hoặc không hiểu gì cả. Đừng tưởng rằng
khi ta nghe được từ ‘hate’ là ta hiểu ngay: ghét!
Vì dụ nghe một cô gái nói với một cậu trai: I hate you! Câu này không
phải lúc nào cũng là ‘Em ghét anh'! Nói với một ngữ điệu nào đó thì có
thể hiểu là: Tôi căm thù anh; hay Thôi, để tôi yên; hay Anh làm tôi bực
mình; hay Anh làm em cảm động quá; thậm chí: Em yêu anh quá chừng chừng!
Và cách nhấn câu cũng thế. Ví dụ trong câu sau đây:
I didn’t say Paul stole my watch!
Nếu người nói nhấn mạnh các từ theo 7 khác nhau, mỗi cách nhấn một từ ( I
- didn’t - say - Paul - stole - my - watch ) thì nghĩa sẽ khác nhau
hoàn toàn:
I didn’t say Paul stole my watch! (Somebody else said that!)
I didn’t say Paul stole my watch! (No! I didn't act like that)
I didn’t say Paul stole my watch! (I ***closed by another way, but I didn't SAY) v.v
Khi học tiếng Việt, chúng ta nghe toàn bộ giai điệu, nên hiểu (và nói
đúng) cao độ của một từ (nói đúng các dấu); thế nhưng khi một người nước
ngoài học tiếng Việt, chúng ta phải khổ công giải thích cho họ lên
giọng, xuống giọng, uốn giọng như thế nào để nói các dấu sắc, huyền,
nặng, hỏi - ngã (do học nghe bằng tai nên người Nam và người Trung đồng
hóa ? và ~, trong khi người Bắc phân biệt chúng rõ ràng). Vì thế, ngược
lại, khi nghe tiếng Anh, cần phải nghe toàn bộ âm điệu để nắm bắt những
tình cảm bên dưới câu nói.
Nghe với cả giai điệu, mình sẽ hiểu (và sau này sẽ dùng) những câu hay
thành ngữ một cách chính xác như người bản ngữ, mà không cần phải dịch
ra. Vì dụ: các câu ngắn như: Oh my God! Look at this! Hoặc No way! Hoặc
You're joking/kidding! Với giọng điệu khác nhau, những câu nói hằng ngày
đó có thể được hiểu là một tiếng khen hay chê, thán phục hay thất vọng,
bằng lòng hay bất bình, chấp thuận hay từ chối!
Và từ đó, mình sẽ biết đối xử khi dùng tiếng Anh cho đúng nghĩa, chứ
không chỉ đúng văn phạm. Ví dụ, khi tiếp một nhân vật quan trọng trong
cơ quan bạn, bạn chuẩn bị nói một câu mời rất trân trọng và đúng nghi
thức (formal): Would you please (to) take a seat? Thế nhưng bạn căng
thẳng đến độ nói theo một âm điệu nào đó khiến người kia bực mình với
bạn (mà bạn không hề biết), vì ngỡ rằng bạn diễu cợt người ta! Thế là
hỏng cả một cuộc đàm phán. Thà rằng bạn nói đơn sơ: Sit down! Với một
giọng hòa nhã, thái độ tôn trọng, cử chỉ lịch thiệp và nụ cười nồng hậu,
thì không ai lầm bạn! Trái lại, nói câu rất formal trên kia, với thái
độ căng thẳng và giọng nói cộc cằn (vì sợ nói sai!), thì tai hại hơn
nhiều.
4. Nghe với những gì một từ bao hàm.Ngôn ngữ dùng để truyền tin, nhưng đồng thời cũng truyền cảm. Vì thế,
mỗi danh từ vừa chỉ định một cái gì cụ thể (denotation), vừa kèm theo
một tình cảm (connotation). Các từ this gentleman, this man, this guy,
this rascal đều có một denotation như nhau là một người nam nào đó,
nhưng connotation thì hoàn toàn khác; cũng như đối với một người nữ nào
đó ta có thể dùng: a lady, a woman, a girl, a whore. Cùng một từ như
communism chẳng hạn. Đối với một đảng viên đảng Cộng Sản hay một cảm
tình viên, thì từ ấy gợi lên bao nhiêu điều dịu dàng cao đẹp, còn đối
với người chống cộng, thì từ ấy gợi lên bao nhiêu điều xấu xa, độc ác!
Trong khi denotation của nó chỉ là một triết thuyết như trăm ngàn thuyết
thuyết khác, mà dù thích dù không, người ta cũng phải dùng để chỉ định
triết thuyết do Karl Marx đề ra! Từ đó, câu nói 'You're a communist!' có
thể là một lời khen nồng ấm hoặc là một lời chỉ trích thậm tệ, tùy theo
connotation của nó.
Khi học tiếng Anh, muốn nâng cao vốn từ vựng thì ta cố học nhiều từ đồng
nghĩa synonym. Thế nhưng, không bao giờ có synonyms đích thực cả: chỉ
tương đương trong denotation chứ connotation hoàn toàn khác (và cũng vì
thế mà không bao giờ có hai từ hoàn toàn có nghĩa giống nhau ở hai ngôn
ngữ khác nhau: mother/father không hoàn toàn là cha/mẹ - và mummy/daddy
không hoàn toàn là ba/má; vì tình cảm đính kèm với các từ ấy khác hẳn
giữa người Việt và người Anh). "Nghe" tiếng Anh, chính là biết nghe
những connotations trong các thuật ngữ mình nghe.
Cho đến nay, tôi chỉ đề nghị các bạn nghe tin tức. Nhưng đó là giai đoạn
nghe để quen với các âm. Trong giai đoạn ‘nghe’ tiếng Anh này, phải bớt
giờ nghe tin tức mà xem phóng sự hoặc các phim truyện. Trên thế giới,
các speakers của các chương trình tin tức buộc phải nói với thái độ
neutral, nghĩa là không được dùng từ kèm theo tình cảm, và không được xử
lý âm điệu để bộc lộ tình cảm của mình, vì thế họ nói rất dễ nghe,
nhưng chỉ nghe tin tức thôi thì ta bỏ sót một phần khá chủ yếu trong
tiếng Anh.
(Trái lại thông tín viên Việt Nam nhiều khi chưa làm chủ được tình cảm
mình trong quá trình đọc một bản tin, và người ta thấy ngay là thông tín
viên vui mừng hay bực tức, tán đồng hay bất đồng, với nội dung bản tin
mình đọc. Còn người viết bản tin thì dùng những từ có connotation: ví dụ
trước kia, khi nói đến một tổng thống Mỹ thì bao giờ cũng là ‘tên
Kennedy’ hoặc ‘tên tổng thống Kennedy’. Còn hiện nay thì ‘Ngài tổng
thống Bush’, mà ít khi nói một cách trung lập: Tổng Thống G. Bush. Trong
khi đó, hầu như không bao giờ nghe trong một bản tin: ‘Cố chủ tịch Hồ
Chí Minh’, mà lúc nào cũng là ‘Bác Hồ’. Thuật ngữ ‘Bác Hồ’ mặc nhiện
tiềm ẩn một tình yêu thương và kính trọng đến độ cụm từ ‘cố chủ tịch Hồ
Chí Minh’, vốn là một cụm từ neutral, lại trở thành một cụm từ ‘thất
kính, xem thường’ đối với ‘Chủ tịch Hồ Chí Minh’!)
5. Nghe bằng trái tim để cảm điều họ cảm.Và cuối cùng, đối với các bạn muốn đi thật sâu vào tiếng Anh, thì có thể
phối hợp tất cả các kỹ năng để hiểu những điều tiềm tàng bên dưới ngôn
ngữ giao tiếp; và điều này hướng đến cách nghe văn học. Mọi ngôn ngữ đều
gợi lên một cái gì đó vượt lên trên từ ngữ. Vì thế, thi ca là một ngôn
ngữ đặc biệt. Người Việt nào, dù thích hay không thích, vẫn cảm được
ngôn ngữ của thi ca. Do đó, muốn nâng cao kỹ năng ‘nghe’ tiếng Anh của
mình thì cần tập nghe những bài thơ. Cho đến nay, khó tìm những bài thơ
audio, nhưng không phải là không có. Tập nghe đọc thơ, dần dần, chúng ta
sẽ cảm được cái tinh túy của tiếng Anh, từ đó ta cảm được vì sao cùng
một tư tưởng mà diễn đạt cách này thì 'hay' hơn cách kia. Bấy giờ ta mới
có quyền nói: tôi đã ‘nghe’ được tiếng Anh.
Ví dụ, khi muốn người ta cảm nhận tiếng gió mùa thu, thì Xuân Diệu đã sử dụng âm ‘r’ trong bài “Đây Mùa Thu Tới”:
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Tương tự như vậy Robert L. Stevenson viết trong The Wind
I saw you toss the kites on high
And blow the birds about the sky;
And all around I heard you pass,
Like ladies’ skirts across the grass..
Tác giả đã làm cho ta cảm được làn gió hiu hiu với các âm ‘r’ và ‘s’ nối
tiếp và quyện vào nhau trong câu cuối, kèm với hình ảnh độc đáo của váy
các mệnh phụ lướt qua trên cỏ (điều mà người Việt Nam hoàn toàn không
có kinh nghiệm, vì mọi nét yêu kiều đều gắn liền với tà áo dài).
Kết luận:Tôi đã bắt đầu gợi ý nghe tiếng Anh để rồi đi đến vấn đề ‘nghe’ tiếng
Anh. Tuy nhiên, tôi lặp lại, những gì tôi nói chỉ là lý thuyết, và không
có lý thuyết nào có thế làm cho bạn nghe được tiếng Anh. Cách duy nhất
ấy là bạn phải tự mình nghe và rút ra những phương pháp thích hợp với xu
hướng, kinh nghiệm và sở thích của mình.
Qua loạt bài này, tôi luôn đả phá cách nghe dựa trên viết và dịch. Thế
nhưng, những điều tôi cho là trở ngại, nhiều khi lại có ích cho bạn, vì
những thứ ấy không cản trở mà còn giúp bạn những cột móc để bám vào.
Vâng. Nếu các bạn thấy việc đọc script, hoặc học từ vựng, hoặc viết
thành câu và tra từ điển - như vẫn làm từ trước đến nay - giúp cho bạn
nghe và hiểu nhanh hơn thì cứ sử dụng phương pháp của mình. Tôi chỉ nhắc
lại một điều này:
Tất cả những trợ giúp đó cũng giống như chiếc phao cho người tập bơi.
Khi tập bơi, nhiều người cần có một cái phao để bám vào cho dễ nổi, từ
đó bạo dạn xuống nước mà tập bơi. Và không ít người bơi giỏi đã khởi sự
như thế. Bạn cũng vậy, có thể những cách nghe từ trước đến giờ (nhìn
script - học từ - kiểm tra văn phạm) giúp bạn những cột chắc chắn để bám
vào mà nghe. Vậy thì xin nhớ rằng: Chiếc phao giúp cho bạn nổi, nhưng
không giúp cho bạn biết bơi. Đến một giai đoạn nào đó, chính chiếc phao
lại cản trở bạn và không cho bạn bơi thoải mái.
Hãy vứt cái phao sớm chừng nào hay chừng nấy, nếu không nó trở thành một trở ngại cho bạn khi bạn muốn bơi nhanh và xa.
Hãy vứt những chữ viết khi nghe nói, nhanh chừng nào hay chừng ấy, nếu
không chúng sẽ cản trở bạn và bạn không bao giờ thực sự 'nghe' được
tiếng Anh!
Sưu tầm